Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

Bút ký của GS Nguyễn Đăng Hưng - Phần 24: Đảm bảo chất lượng hợp tác đào tạo quốc tế trong một môi trường đầy bất trắc

Nguồn:GS Nguyễn Đăng Hưng
Bài bút ký này đã xuất bản từ lâu, nhưng giá trị và tầm nhìn của bài viết này vẫn rất hay và có ý nghĩa trong một môi trường mà "nhà nhà thạc sĩ, người người tiến sĩ..." nay xin trích đăng lại cho những ai chưa đọc, hiểu thêm một chút về thực trạng GD & ĐT hiện nay.
*****
Cỗ xe con trên quãng đường khúc khuyểu

Tôi đã mong mỏi là các cỗ xe con EMMC&MCMC, lắp ráp tại Việt Nam chất chứa  được cái hồn của một nền giáo dục Châu Âu đã vun trồng từ mấy thế kỷ, đã làm cho học thuật nhân loại khởi sắc mà Bỉ là một nước đã kế thừa khá bài bản và xuất sắc. Nhưng vì phải bon chạy trên khoản đường khúc khuyểu, có chỗ tráng nhựa nhưng có chỗ nhan nhản ổ gà, có chỗ tráng xi măng nhưng đang bắt đầu vỡ nứt, người cầm lái đã phải trải qua một quản thời gian dài với nhiều căn thẳng, lo toan.

Thời buổi cuối 1995 đầu 1996 thế kỷ trước là thời buổi các trường đại học, các viện nghiên cứu tại Việt Nam được bộ giáo dục đào tạo (GD&ĐT) cho phép đứng ra tổ chức các lớp thạc sỹ, đào tạo cao học.  Đây là một giai đoạn cá biệt vì những chọn lựa lúc bấy giờ đã ảnh hưởng quyết định đến tình hình chung của giáo dục đại học tại Việt Nam sau này. Tôi nghĩ cần có một nghiên cứu thống kê đầy đủ mới xác định rõ nguyên do và hậu quả.  Cảm giác của riêng tôi qua những tiếp xúc, những thông tin mà tôi lĩnh hội được đã không làm cho tôi phấn khởi. Xin ghi lại sau đây cho bạn đọc tham khảo.
Các trường đại học, các cơ sở chính quyền, vốn bị chỉ trích là có quá nhiều cán bộ không có trình độ, đã tìm cách cải tiến. Và thay vì xây dựng một kế hoạch dài hạn bài bản lấy thực học làm nền tảng, bộ đã để cho xuất hiện những lớp đào tạo cao học một cách khá vội vã,  không có thành phần giáo sư đẳng cấp quốc tế, không có giáo trình tương ứng. Một phong trào chạy theo bằng thạc sỹ, chạy theo thành tích không đến hẹn mà lại lên.  Tôi còn nhớ có lần ra Hà Nội đi ăn chiều với một cán bộ cao cấp tại Bộ GD&ĐT.  Khi thấy tôi gọi tí rượu vang ông ta đồng ý ngay rồi nói thêm:
“Hay đấy, hôm nay tôi cần uống tí rượu để giải sầu…”.
Thấy tôi trố mắt, lộ vẻ ngạc nhiên ông ta thố lộ:
“Buồn quá. Hôm nay tôi phải làm hồ sơ để cấp 31 cái bằng thạc sỹ mà các đối tượng chẳng qua lớp đào tạo nào cả. Một quyết định từ trên cao…”. Bắt đầu từ đó tôi mới hiểu tại sao số người tự giới thiệu là thạc sỹ đông đảo nhanh như vậy!
Còn các sinh viên Việt Nam đã từng theo học các chương trình EMMC hay MCMC  thì họ bảo với tôi:
“Chúng em chọn lớp thạc sỹ của thầy vì các lớp do phía Việt Nam tổ chức quá chán. Giáo trình y chan như chương trình kỹ sư đã học, chẳng có gì mới mà phải nhai đi nhai lại. Cuối năm ai cũng đậu cả, luận văn thì cứ thế mà xào nấu lại thôi…”.
Đào tạo cán bộ giảng dạy đại học, các ứng viên cấp bậc tiến sỹ, các giáo sư đại học tương lai mà không có khâu chuẩn bị người thầy đủ trình độ, đủ hiểu biết khoa học hiện đại, có tầm cỡ quốc tế là một điều khó chấp nhận.  Rồi năm năm sau lại thú nhận là chất lượng giảng dạy tại các ĐH không có cải tiến, không đạt chuẩn quốc tế. Rồi những tiến sỹ được đào tạo tại Âu-Mỹ-Úc…, khi về nước thì chỉ được xử dụng nhỏ giọt. Chỗ đứng quan trọng đã có người chiếm lĩnh mất rồi! Đây chính là tình trạng bất cập mà các nhà mô phạm tâm huyết, các trí thức chân chính thường phản ảnh với báo chí.

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

"Bầu Hạ to quá không dám vát mặt về quê"

Hạ quê ở Quảng Ninh, nhà nghèo lại đông anh chị em nên vừa rời trường cấp 3 cô đã theo bạn bè đi làm thuê kiếm sống. Bản tánh hiền lành lại được cái nhan sắc trời cho nên Hạ được lòng rất nhiều cánh đàn ông mến mộ. Hạ nổi tiếng vang vọng khắp vùng vì vẻ đẹp hương trời sắc nước của mình, quê Hạ vốn là thành phố du lịch nên hàng năm đón hàng trăm nghìn lượt khách ngoại quốc đến thăm. Trong số du khách đó có anh chàng tên U-nếch vì quá cảm mến Hạ nên đã 2 lần vinh danh cô, từ đó tiếng tăm Hạ ngày một vang xa, du khách khắp nơi nườm nợp đổ về quê Hạ.

Hình chỉ có tính chất minh họa, không liên quan nội dung bài viết.
Thế rồi ngày nọ có tay đại gia họ Háo tên là Danh trên Hà thành về quê Hạ xin thưa chuyện với gia đình, tay đại gia muốn kết duyên với Hạ và hứa sẽ "lăng-xe" cho Hạ lọt vào cái "top-ten" gì đó của thế giới. Bố mẹ Hạ ở quê ít học nên nghe cái "top-ten" thế giới là khoái lắm đồng ý ngay, chứ thật ra cũng không ai biết cái "top" đó là gì cả. Tay đại gia họ Háo nói rằng anh ta có quen với một đại gia mới nổi trên thế giới tên là Won-7 và rằng Won-7 sẽ làm mọi cách để đưa Hạ vào hàng "top".

Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2011

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 7

27. KHAI-TRƯƠNG CÂY GẬY GỖ MUN
Theo thời gian tôi và Lan-Thi đã quen với đời sống lao-động cực nhọc và ăn uống thiếu thốn trong nông-trường cải-tạo của Khờ-Me đỏ. Bỗng một hôm viên Kamaphibal sai 1 tên Khờ-Me đỏ xuống lều biểu tôi và Lan-Thi phải thu xếp hết đồ đạc và lên văn-phòng trình-diện gấp. Vừa gặp mặt, viên Kamaphibal đã nói ngay:
- Kể từ nay các đồng chí được xếp vào hàng ngũ của cách mạng. Angkar Loeu (tức chánh-trị bộ của trung-ương đảng CS. Căm-Bu-Chia) đã đánh giá cao công tác phục vụ cách mạng trước kia của đồng chí và đã gửi đến cho đồng chí một giấy thông hành có giá-trị trên toàn quốc. Vậy đồng chí hãy cho tôi biết ước nguyện cửa đồng chí để tôi điền vào khoảng “mục đích” trong thông-hành còn để trống. Nhưng đồng chí nên nhớ rằng: đây chỉ là bước đầu, muốn trở nên 1 cán bộ cách mạng, đồng chí phải trải qua 1 giai đoạn huấn luyện và thử thách nhiệt tâm nữa.
- Dạ, thưa đồng chí Kamaphibal, ước nguyện duy nhất của tôi bây giờ là đi tìm mẹ tôi và chị tôi đã thất lạc từ ngày di-tản.
- Đồng chí có biết hiện giờ họ ở đâu không?
- Thưa không!
- Tìm người trong lúc này chẳng khác tìm kim trong đống rạ. Dù sao thì tôi cũng thỏa mãn đồng chí. Viên Kamaphibal nói và cho phép chúng tôi được xuống kho của trại nhận đồng phục, đồng thời ra lịnh cho Lan-Thi phải cắt tóc ngắn như các nữ cán bộ khác. Chúng tôi được phát mỗi người 2 bộ đồ đen, 2 đôi dép cao-su và 2 cái khăn rằng đỏ đen, 2 đôi dép cao-su và 2 cái khăn rằng đỏ. Nhìn Lan-Thi trong bộ đồng phục, tôi thấy nàng chỉ còn thiếu khẩu súng AK 47 trên vài nữa là đủ làm cho bọn người lưu đày phải tháo mồ hôi, mỗi khi trông thấy.

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

Ba người thầy vĩ đại

Nguồn: Internet

Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: "Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?"

Hasan đáp: "Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.
Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: "Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm."
Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!" Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: "Có trộm được gì không?" và ông ta đều đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ". Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.
Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: "Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!"

Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 6

24. THỪA KẾ DI-SẢN
Mùa rét năm 1975 thật là khổ sở cho những người dân thành thị bị lưu đày bất ngờ như chúng tôi. Chẳng ai nghĩ đến việc đem theo đồ ấm hay chăn mềm gì cả. Mỗi tối, trong lều lá mỏng manh, chúng tôi phải đốt lửa để sưởi ấm.
Một hôm, trong lúc chúng tôi đang làm việc, bỗng Toum xuất hiện. Trông hắn gầy xọm hẳn đi, nhưng vẫn khỏe mạnh như thường.
Hắn nói:
- Cám ơn các đồng chí đã đến thăm tôi trong lúc tôi ốm. Hôm nay tôi đem đến cho các đồng chí 1 tin vui và 1 tin buồn. Tôi kể tin vui trước: Cậu tôi nói cuộc điều tra của Angkar về tiền tích cách mạng của Chấn sắp có kết quả tốt. Vậy từ nay 2 người khỏi lo ngại gì nữa. Nhưng riêng về phần tôi, lại được 1 tin rất buồn: ngày mai tôi sẽ phải xa các bạn rồi. Có lẽ không bao giờ mong gặp lại...
- Bộ Toum bị đổi đi sao? Lan-Thi lo lắng hỏi.
- Phải. Tôi phải ra mặt trận.
- Mặt trận nào?
- Phía Đông Nam, sát biên giới Việt Nam. Các đồng chí biết chiến tranh đã bùng nổ từ hồi tháng 5, nhưng lần này đánh nhau với bọn Việt Nam, trên cả 3 mặt trận: vùng Đông Bắc gần Rattanakiri, vùng Đông Nam, khu “mỏ Vẹt” và phía Nam vùng Hà Tiên.
- Có phải là những đụng chạm nhỏ ở biên giới không? Tôi hỏi.
- Không. Lần này vô cùng nghiêm trọng. Chiến tranh thực sự giữa Việt Miên đã xảy ra, vì bọn Việt Minh đã không chịu trả lại những vùng đất mà trước kia chúng đã mượn làm căn cứ địa đánh vào miền Nam Việt Nam.
- Toum đã khỏi hẳn rồi hả? Lan-Thi hỏi.
- Phải, nhưng đây chẳng phải là lần đầu tiên. Trong thời chiến tranh trước, nhiều khi tôi đã phải đánh nhau giữa lúc đang lên cơn sốt đến 40 độ! Nhưng lần này tôi có linh-cảm chắc không sống sót được, vì tôi được trao phó một công tác cực kỳ nguy hiểm. Tôi phải tham gia đoàn quyết tử, thâm nhập hàng ngũ địch. Các đồng chí biết đánh nhau với bọn Việt-Nam không dễ ăn như đánh nhau với bọn lính Lon Nol đâu. Tụi nó kinh nghiệm chiến trường đầy mình. Bởi thế, tôi đến từ biệt các bạn.
- Tụi tôi sẽ nhớ Toum nhiều lắm. Lan-Thi ngậm ngùi nói. Toum đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, bây giờ chúng tôi chẳng còn trông cậy vào ai được.
- Các bạn cứ yên tâm. Tôi đã xin cậu tôi lo cho các bạn. Nếu có chuyện gì xảy ra cứ đến gặp ổng. Cậu tôi biết chúng ta là bạn từ lâu. Nhưng trước khi đi, tôi nhờ Chấn giữ dùm tôi cái gậy gỗ mun này. Nó là vật quý nhất đời tôi. Tôi không thể nào đem theo ra mặt trận được, sợ bị thất lạc. Nếu tôi may mắn sống sót trở về, tôi sẽ nhận nó lại. Nếu tôi chết, xin các bạn giữ nó như 1 kỷ vật của tôi. Mai mốt, khi các đồng chí đã được Angkar thừa nhận các đồng chí sẽ có dịp xử dụng nó như tôi đã xử dụng. Nó rất tiện dụng và hiệu nghiệm ghê gớm...

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 5

20. ANGKAR BIẾT HẾT!
Hôm nay, như thường lệ, Toum lại đến đem đồ ăn và hoa cho Lan-Thi. Nhưng vẻ mặt hắn rất khác thường. Dường như có gì nghiêm trọng lắm. Ăn xong, chúng tôi bát đầu làm việc lại. Nhưng khi Lan-Thi vừa đứng lên thì Toum đã chụp lấy tay nàng, giữ lại và nói:
- Tôi cho phép đồng chí nghỉ tay. Tôi có điều rất quan trọng cần phải nói riêng với đồng chí. Thoạt tiên, Lan-Thi nghĩ hắn muốn tỏ tình, nên đã sẵn sàng những cử chỉ và lời nói để hứa hẹn xuông cho qua chuyện. Nhưng khi nghe câu nói đầu tiên thốt ra từ cửa miệng của Toum, mặt nàng bỗng tái nhợt, không còn chút máu.
- Đồng chí và anh của đồng chí sẽ bị xử tử hình!
- Không, đấy là chồng tôi thực sự. Có phải anh tôi đâu. Lan-Thi cố cãi cách yếu ớt, trước cái nhìn tàn bạo của Toum.
- Đồng chí còn nhớ Kamaphibal đã nói gì không?
- Dạ nhớ, đồng chí.
- Các đồng chí không phải là vợ chồng. Các đồng chí đã nói láo với Angkar. Nói láo với Angkar cũng là một tội tử hình, các đồng chí có biết không?
- Nhưng chúng tôi đã lấy nhau. Lan-Thi cố chống chế.
- Các đồng chí nên biết rằng, tôi đã theo dõi các đồng chí suốt 1 tuần lễ, cả ngay lẫn đêm. Tôi đã nghe tất cả những gì 2 người nói chuyện với nhau. Nhưng điều tôi ngạc nhiên và nghi ngờ nhất là 2 người không bao giờ ngủ chung với nhau như vợ chồng. Đồng chí nằm bên góc phải, còn Chấn nằm bên góc trái. Hai người không thể nào qua mặt tôi được. Hai người đừng nghĩ rằng tôi ngu, không biết gì. Angkar kiểm soát cả đến trong giấc ngủ của mọi người.
- Trời Phật ơi! Lan-Thi kêu lên rên rỉ, không ngờ bọn quỷ đỏ này lại kiểm soát cả đến đời sống kín đáo riêng tư của từng người như thế. Nhưng nàng vẫn còn cố bào chữa: “Xin đồng chí cho tôi được phân trần một chút. Sở dĩ chúng tôi phải ngủ riêng vì... mấy lâu nay tôi bệnh, nên không ngủ chung được.
Toum khẽ nhếch mép cười, gương mặt có vẻ dịu xuống đôi chút. Hắn nói:
- Tôi biết hết rồi. Vợ chồng dù có đau ốm, không làm tình được, cũng nằm kề bên nhau, chứ không bao giờ nằm riêng tư như thế. Bây giờ Lan-Thi nên im đi, đừng cố cãi nữa. May mắn cho 2 người đã gặp tôi đấy. Nếu gặp 1 đồng chí khác, 2 người đã bị xử tử tức khắc rồi. Tôi biết 2 người là anh em. Cách 2 người nói chuyện, xưng hô với nhau cũng thấy rõ. Đây là vấn đề sinh tử, chứ chẳng chơi. Hai người phải thật cẩn thận. Có những đêm tôi không trực gác, 2 người nên thận trọng.
- Cám ơn đồng chí nhiều lắm. Vừa nói, nàng vừa liếc nhìn cái gậy gỗ mun trên tay hắn.

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 4

15. CÁI VÁY NGẮN QUÁ!
Sáng ngày 3 tháng 5, đoàn lưu đày chúng tôi lại tiếp tục lên đường, dùng phà qua bờ sông bên kia, rồi leo lên những chiếc xe vận tải nhà binh, mui trần, hiệu Molotov của Tàu di chuyển tiếp. Nhưng vì đêm qua trời đã mưa to, nên đường xá xình lầy trơn trợt, rất khó di chuyển. Đi bộ thì té lên té xuống, giày dép bị xình non có chất đất sét bám chặt, không rút lên được. Xe hơi bị lún bánh lại thêm chở nặng, không sao nhúc nhích. Chúng tôi phải xuống xe phụ lực đẩy cho xe vượt qua quãng đường khó khăn ấy. Đến khoảng 8 giờ, đoàn xe mới từ từ lăn bánh khởi hành. Lan-Thi ngồi kế bên 1 thiếu nữ, mà cách ăn mặc cùng dáng điệu bên ngoài đã tố cáo nàng thuộc loại gái làng chơi. Trên khuôn mặt mỏi mệt, dã dượi, vẫn còn vương màu son phấn. Cặp lông mày và lông mi bôi đen, giờ đây vì lăn lóc đường trường gian khổ đã nhoe nhoét, lem luốc. Những ngón chân và ngón tay nàng vẫn còn nguyên màu son đỏ thắm. Tệ hại nhất là cái váy của nàng quá ngắn hoàn toàn không thích hợp với tình huống hiện hữu, đã khiến mọi người đều phải chú ý và cảm thấy khó chịu. Chắc có lẽ vì quá vội vàng di tản nên nàng đã không kịp thay đổi y-phục?
Trước mắt nàng là 2 tên lính Khờ-Me đỏ, tuổi còn con nít, có vẻ mắc cở, ngồi cứng đơ không dám ngó ngay nàng. Ngược lại, kế bên có một con bé Khờ-Me đỏ, ngồi nhìn nàng không chớp với cặp mắt tưởng chừng như tóe lửa mà nàng không hề hay biết.
Đoàn xe chở tù nhân lưu đày lăn bánh chậm chạp trên con đường nhỏ hẹp, gập ghềnh, đầy hang lỗ và ổ gà, tiến về phía Tây Bắc, trên quốc lộ số 7 đến Kompong Chàm. Khi chỉ còn vài cây số nữa thì đến Bathey, đoàn xe ngừng lại dọc đường và mọi người được lịnh phải xuống xe. Con đường đã bị những hố bom sâu, lớn cắt đứt ngang, xe không thể nào qua được, phải chạy vòng vào ruộng lúa, rồi mới trở ra tiếp tục lộ trình.
Khi Lan-Thi vừa dợm đứng lên để bước xuống xe, con bé lính Khờ-Me đỏ chợt quát to ra lịnh:
- “Tên kia! Hãy đi theo ta!”
Lan-Thi hoảng vía, hỏi:
- “Tôi hả?”
- “Không phải mày. Con kia!” Con bé lính Khờ-Me đỏ nói.
- “Có phải tôi không, đồng chí?”. Cô gái làng chơi hỏi.
- “Đúng! Chính mày! Hãy đi theo ta!”
Mọi người lật đật xuống xe, đi vòng trong ruộng lúa, qua miệng hố bom để đến bên kia mặt đường. Con bé lính Khờ-Me đỏ và cô gái làng chơi đã khuất bóng trong ruộng lúa và sau những lùm cây dại mọc um tùm. Trong không gian yên tĩnh bỗng vang lên một tiếng súng nổ khô khan. Đoàn người lưu đày giật mình kinh hãi, thầm đoán chuyện gì vừa mới xảy ra. Sau đó, con bé lính Khờ-Me đỏ lầm lì quay trở lại, trước những cặp mắt đang đổ dồn, chăm chú nhìn vào đó, như nhìn con quái vật đáng ghê sợ.

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 3

10. SA THẢI TỰ NHIÊN
Sáng hôm sau, ngày 21-4, đoàn người lưu đày lại tiếp tục lên đường trong không khí nóng nực như lò lửa. Những người đã chết trong đêm hay bây giờ còn đang ngắc ngoải, hấp hối đều bị bỏ lại làm mồi cho kên kên và chồn sói. Trên đầu chúng tôi từng đàn kên kên, diều, quạ đang bay lượn chờ chực.
Chúng tôi không ai đem theo cuốc xẻng để đào hố chôn cất thân nhân. Sáng sớm, tôi thấy xác người đã nằm ngổn ngang khắp nơi trên mặt đất. Tất cả đều trơ trọi phơi xác trên đất, ngửa mặt ngạo nghễ nhìn trời không nhúc nhích. Chỉ có vài người may mắn đã được thân nhân phủ lên mặt 1 tấm khăn quàng, hay 1 cành lá khô. Những người còn sống sót, còn đủ sức để tiếp tục cuộc hành trình, trước khi ra đi không khỏi bịn rịn với thi thể của thân nhân, khóc lóc vật vã và ngỏ lời từ biệt. Dọc đường lại thêm nhiều người nữa gục ngã, đa số đều là những người già yếu và trẻ em. Đây là chính sách “chọn lựa tự nhiên” của bọn Khờ-me đỏ. Chỉ những kẻ nào đầy đủ sức khỏe mới được sống sót. Ngoài ra đều bị sa thải tự nhiên, chánh phủ không phải tốn cơm của, thuốc men, để nuôi dưỡng. Ngay cả sự tống táng chánh phủ cũng dành cho loài điểu thú cáng đáng giúp!
Hôm nay đoàn người như bị ứ đọng, không thể nào tiến bước thêm được nữa. Chúng tôi đành dậm chân tại chỗ dưới cơn nóng nực như trong lò lửa. Cuộc di tản từ thủ đô đến đây sắp tiến vào giai đoạn chót. Đoàn người đi đầu đã bị ứ đọng tại Prek Kdam, trong khi làn sóng người bất tận từ đàng sau vẫn tiếp tục đổ dồn tới. Trong vòng hơn 4 tiếng đồng hồ, chúng tôi chỉ tiến thêm được vài trăm thước. Hai bên đường xác chết và những người hấp hối nằm la liệt, không thể nào đếm hết được. Tất cả đều phó mặc cho số mệnh. Một bà già khoảng 70 tuổi gục trên đống đá ong, nhưng vẫn con cố gắng cởi sợi giây cột bà và đứa cháu nhỏ vào nhau cho khỏi thất lạc và thều thào nói:
- “Cháu ráng sức đi đi... Đi theo mấy người đó. Bà đi không nổi nữa. Bà biết... bà sắp chết rồi!!...”
- “Không, bà! Cháu muốn ở lại với bà”. Đứa bé vừa khóc vừa nói.
Lan-Thi tìm cách giúp bà lão đứng lên, nhưng lập tức 1 tên Khờ-Me đỏ bước đến, quát:
- “Để nó nằm đó! Nếu nó không đi nổi nữa, kệ nó!... Còn mày, đi đi, không được cản trở bước tiến!” Rồi quay về phía đứa bé, hắn nói:
- “Đi tới! Mau lên!”
- “Nhưng tôi đi với ai! Tôi không còn ai nữa?” Đứa trẻ đáp trong nước mắt.
- “Sẽ có người khác lo cho mày. Bây giờ không được lộn xộn. Đi mau lên”.
Đứa trẻ lặng lẽ làm theo lời hắn nói, chen vào đám đông rồi mất dạng. Dưới 1 cái hố cạn bên đường, một thiếu phụ đang chuyển bụng đẻ. Người chồng lo quýnh quáng, chạy lăng xăng kêu cứu giúp đỡ, nhưng chẳng ai dám ngừng chân trong giây lát. Tất cả đều ngoảnh mặt đi làm như không trông thấy gì đang xảy ra trước mắt. Biết bao nhiêu phụ nữ đã sanh đẻ trong trường hợp đau đớn khủng khiếp này, bên đường, dưới cơn mưa tầm tã hay dưới ánh nắng nóng thiêu đốt của mặt trời hè?
Toàn thể dân chúng trên toàn quốc Cam-Bu-Chia đã phải di tản trong tình trạng này, chứ không riêng dân thủ đô Nam-Vang đã phải riêng chịu đọa đày để trả thù giai cấp!

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 2

5. NHỮNG ĐỨATRẺ SƠ SANH
Trước khi bước chân vào đến ngôi nhà bảo sanh đã xây cất từ năm 1907, chúng tôi lại gặp 2 tên Khờ-Me đỏ khác.
- “Nếu mấy người muốn vô nhận con nuôi mới sanh thì cứ vô, nhưng không được ở lại luôn trong đó đấy nhé!”. Một tên nói với chúng tôi, đồng thời trao đổi cái nheo mắt rất quỷ quái với đồng bọn. Khi chúng tôi bước vào trong sân thì một cảnh tượng vô cùng rùng rợn đã bày ra trước mặt, khiến Lan-Thi phải kêu rú lên và lấy tay bưng kín mặt. Em tôi đã kinh hoàng đến cùng cực khi nhìn thấy trên mặt cỏ đầy rẫy những tử thi đẫm máu nằm lẫn lộn với những xác trẻ sơ sinh còn quấn trong những cái tả đỏ đẫm máu. Xác sản phụ, xác hài nhi nằm lẫn lộn bên những tấm tã lót, những mảnh vải băng vương vãi khắp đó đây. Nhiều thiếu phụ lõa lồ, thân thể đẫm máu, nằm thoi thóp bất động, giương đôi mắt lờ đờ yếu đuối nhìn chúng tôi như van xin cầu cứu, trong khi đôi môi khẽ rung động như thều thào muốn nhắn gửi lời gì. Dưới gốc cây hoa nhài, một sản phụ nằm chết, đôi mắt mở trừng trừng biểu lộ một tâm trạng kinh hoàng đến cực độ và trên tay hãy còn ẵm chặt 1 hài nhi vừa mới sanh, đỏ hỏn.
Tiếng hét thất thanh của Lan-Thi đã vang động từ ngoài sân vào đến tận bên trong bảo-sanh-viện, nơi có khoảng ngót chục tên Khờ-Me đỏ đang cùng nhau đùa rỡn. Bọn chúng cũng đưa mắt nhìn về phía chúng tôi. Tôi phải nắm lấy vai em tôi và luôn mồm lập đi lập lại câu:
- “Im đi em. Thôi, im đi em. Hãy bình tĩnh và can đảm lên em”.
Tất cả bọn Khờ-Me đỏ đều nhìn chúng tôi trừng trừng, không chớp mắt. Một vài tên bước đến gần chúng tôi, lớn tiếng la rầy:
- “Cái gì vậy? Mấy người không được hét lên như thế. Biết không!”
- “Dạ, xin lỗi quý đồng chí! Anh em tôi vô kiếm chị tôi và đứa cháu mới sanh”. Tôi đáp giọng van lơn.
- “Nhà bảo sanh đã được lịnh di tản từ nửa giờ trước đây. Bây giờ trong này không còn ai hết!”. Một tên Khờ-Me đỏ nói.

- “Không! Hãy còn bọn con nít mới đẻ!”. Một tên Khờ-Me đỏ trạc độ 12 hay 13 tuổi gì đó chen vào ngắt lời. Hắn vừa múa khẩu súng máy trên tay cùng với giải băng đạn vừa cười đùa nói tiếp: “Mấy người không tin hả? Chính tay tụi tôi đã cho chúng bú chai...ha...ha..ha.a.a a a” Hắn cười cách man rợ và đầy bí hiểm. - “Quý vị có thể vui lòng cho anh em tôi biết mấy người đàn bà ấy đã đi đâu không ạ?” Lan-Thi đã nín khóc và lên tiếng hỏi.
- “Sao tôi biết được? Tụi họ chạy tán loạn khắp mọi nơi, mọi chỗ. Tụi nó làm như thể sắp bị ăn tươi nuốt sống đến nơi. Nhiều người đã chạy bỏ cả con lại. Còn cả đống trong đó. Có đến trăm đứa chứ không ít”. Vừa nói, tên này vừa chỉ vào phía trong nhà bảo sanh.
- “Tụi nó đã chết ngoẻo hết rồi!”. Một tên khác nói chen vào, giọng có vẻ hơi bực mình.
- “À, phải rồi. Đồng chí không muốn phải dọn dẹp vệ sinh vụ đó chứ gì?”.
Một tên khác có vẻ muốn lên mặt thầy đời với đồng bọn, mặc dù hắn cũng chưa quá 14 tuổi:
- “Hèn chi đồng chí đã vứt chúng nói ra ngoài cửa sổ mà không chịu chờ đến khi chúng chết hẳn”.
- “Im đi!”. Tên Khờ-Me đỏ đã quăng con nít mới đẻ, còn sống, qua cửa sổ, nhe hàm răng vàng khè đóng đầy bựa ra giảng giải: “Đồng chí nên nhớ rằng, ở đây chỉ có mình tôi là người duy nhất đã thấu triệt đường lối và chủ trương của cách mạng”. Lời qua tiếng lại có vẻ đã gay gắt. Bỗng tên chỉ huy quát lên:
- “Im đi! Các đồng chí lại sắp gấu ó nhau về chuyện ấy phải không? Tụi con nít mới đẻ trước sau gì cũng sẽ chết. Chẳng có gì phải bận tâm. Chúng làm sao tự di tản được? Chúng chịu đựng sao nổi nắng nóng, trời mưa và sương lạnh ban đêm?” Giọng của hắn nghe thật là tàn nhẫn, vô nhân đạo!


6. GIA ĐÌNH LY TÁN
Chúng tôi đã trải qua 1 kinh nghiệm mắt thấy tai nghe đến hãi hùng khủng khiếp. Chúng tôi cũng không còn nước mắt để khóc nữa! Bây giờ chúng tôi đờ đẫn bước trở ra như 2 người máy vô tri giác. Trước mắt chúng tôi, quang cảnh trên đường phố đã trở nên hỗn loạn không thể nào tả xiết. Giòng người lũ lượt kéo nhau đi như thác nước đang chảy siết. Tiếng người thất lạc thân nhân, kêu gọi nhau ơi ới. Tiếng trẻ con kêu khóc, gọi cha mẹ nghe nhức nhối tận tâm can: “Má ơi! Má ơi! Chúng con đây. Má đâu rồi? Má ơi!”
Hai bên đường, cách khoảng nhau chừng trăm thước, lại có những tên Khờ-Me đỏ võ trang đầy mình đứng gác, trai gái lẫn lộn. Có đứa luôn mồm gào to vào máy phóng thanh cầm tay, hối thúc: “Đi mau lên! Đi nhau lên! Không ai được đứng lại! Kẻ nào ngoan cố, không tuân lệnh sẽ bị xử tử ngay tại chổ!”
Chúng tôi nhận thấy không còn xử dụng xe hơi được nữa. Vả lại cũng không có gì nặng để chuyên chở, chúng tôi thấy đi bộ là thượng sách. Đi bộ chúng tôi có thể băng đường về nhà mau hơn là đi xe.
Đến khoảng 6 giờ chiều, anh em tôi về đến nhà. Ngay khi chúng tôi sắp đẩy cửa bước vào nhà, bỗng một tên Khờ-Me đỏ xuất hiện, quát to:
- “Ê, mấy người kia! Phải di tản ngay lập tức!” Anh em tôi bước đến phía hắn, cố van nài:
- “Dạ, xin đồng chí cho phép anh em tôi vô nhà để gặp má tôi, rồi anh em tôi sẽ đi ngay”.
- “Không còn ai trong nhà này hết! Khu phố này đã di tản hết rồi!”. Tên Khờ-Me đỏ đáp.
- “Xin đồng chí làm ơn cho anh em tôi được vô lấy đem theo ít đồ ăn. Chúng tôi không có chút lương thực nào...” Lan-Thi khẩn khoản van nài.
Ngập ngừng giây lát, nhưng cuối cùng hắn nói:
- “Được rồi! Nhưng phải mau lên. Cho mấy người 10 phút!”
Bước vào nhà, chúng tôi thấy trống trơn. Các cánh cửa sổ đều mở toang. Trên bàn ăn, cơm và thức ăn còn nguyên vẹn và chưa nguội hẳn. Lan-Thi lại òa lên khóc nữa.
- “Em coi nè! Bọn chúng đã không cho má và dì Minh có đủ thì giờ để ăn miếng cơm dằn bụng trước khi đi!... Đâu em chạy u lên phòng má coi, xem má có nhớ đem theo thuốc uống hàng ngày không. Mình phải lẹ lên, may ra còn đuổi theo kịp má và dì Minh. Chắc má đi chưa lâu đâu”. Tôi nói. Lan-Thi hấp tấp chạy lên lầu, lát sau trở xuống nói:
- “Có. Má đã đem theo thuốc uống. Nhưng Boong Chấn ơi, - (tiếng Căm-Bu-Chia, BOONG có nghĩa là: anh. Còn Chấn là tên kêu nựng của tôi trong gia đình) - thuốc của má còn xài được bao lâu? Lan-Thi lo âu hỏi.
- “Chừng khoảng 2 hay 3 tuần gì đó” Tôi đáp không mấy quả quyết.
Từ lâu má tôi đã bị chứng đái đường rất nặng, phải thường xuyên điều trị và uống thuốc mỗi ngày. Nếu chẳng may không có thuốc, chắc má tôi sẽ không thể nào cầm cự nổi.
7. LƯU ĐÀY TẬP THỂ & ĐÔI GIÀY GIẾT NGƯỜI
Anh em tôi mỗi người đem theo ít lương thực gồm có: gạo, cá khô, muối và một cái nồi nhỏ để nấu cơm, cùng vài bộ quần áo để thay đổi hàng ngày. Sau khi đã đóng kín các cửa sổ, và khóa kỹ cửa trước, anh em tôi rời khỏi nhà, bước xuống đại lộ Monivong, nhập bọn với đoàn người đang lũ lượt di tản. Làn sóng người nối đuôi nhau đi về hướng bắc, như một đàn cừu ngoan ngoãn trước sự săn đuổi tàn bạo của đàn chó săn vô tri giác. Chúng tôi di chuyển chậm chạp, nhưng không ai được phép dừng chân dọc đường, hay tách ra khỏi đoàn, với bất kỳ lý do nào. Quân Khờ-Me đỏ bố trí rải rác dọc 2 bên đường, canh chừng chúng tôi chẳng khác những con chó săn cừu. Thỉnh thoảng có những người thất lạc thân nhân, lăng xăng kêu gọi, tìm kiếm quanh quất, bọn Khờ-Me đỏ không nói nửa lời, thản nhiên bóp cò bắn chết ngay tại chỗ. Bây giờ trời vẫn chưa tối hẳn. Tôi thấy nổi lo âu, sợ hãi hiện rõ trên khuôn mặt mọi người.
Bị cưỡng bách di tản quá gấp rút, nhiều gia đình đã thất lạc nhau hoàn toàn, và cũng chẳng thấy ai kịp đem theo lương thực và nước uống phòng thân. Đoàn người lặng lẽ, nặng nề tiến bước, không ai dám thốt ra một lời nào, dù chỉ là để than thở cho vơi bớt nỗi lo âu. Chỉ một câu nói nhỏ cũng đủ mất một mạng người! Đã có nhiều người bị bắn chết ngay tại chỗ, trước mặt đám đông, vì những nguyên nhân nào không ai hiểu được. Ngay cả đến thân nhân những người bị hành quyết còn đang hấp hối, hay ngắc ngoải trên mặt đường, cũng không dám dừng chân lại để giúp đỡ nhau.
Khi chúng tôi đã nhập vào đoàn người di tản được khoảng 15 phút bỗng làn sóng người sau lưng tôi bị chận khựng lại. Hai tên Khờ-Me đỏ, một trai một gái, khoảng mười mấy tuổi đầu, xông vào giữa đoàn người lôi một người đàn ông lên lề đường, tra vấn:
- “Mày là lính cộng hòa, phải không?”
- “Dạ, không phải!” Người đàn ông đáp: “Tôi không phải là lính. Tôi làm thợ máy!”
- “Tại sao mày lại mang giày lính?”
- “Dạ, tôi mua đôi giày này ở khu chợ trời Olympic. Có nhiều thường dân mang giày này, thưa đồng chí”.
Một tên Khờ-Me đỏ khác, đôi mắt đỏ ngầu sát khí, cắt ngang cuộc đối thoại:
- “Mấy đồng chí còn phí thì giờ với tên tay sai đế quốc này làm gì nữa!”
Vừa dứt câu, hắn đã chìa súng bắn ngay vào ngực nạn nhân một phát. Người đàn ông chỉ kịp thét lên một tiếng rú đau đớn như một con heo bị chọc tiết, rồi ngã vật xuống đất.
Đoàn người lại tiếp tục đi tới, im lặng như thế tai không nghe và mắt không thấy chuyện gì vừa mới xảy ra trước mặt họ. Tôi cầm tay Lan-Thi, cảm thấy tay nàng lạnh ngắt và ướt đẫm mồ hôi. Bọn Khờ-Me đỏ lại gào to hối thúc: “Đi tới! Mau lên! Đi tới! Mau lên!”... Đoàn người chuyển động nhanh hơn một chút, nhưng chỉ giây lát sau lại trở về tình trạng cũ, vì đoàn người dài vô tận, không biết đã bị tắc nghẽn ở chổ nào phía trước.
Một đứa trẻ lạc loài, quá mệt mỏi đã ngã quỵ dưới chân Lan-Thi. Bằng một hành động thật nhanh và thật kín đáo, không để bọn Khờ-Me đỏ chú ý, nàng đỡ nó đứng lên. Bây giờ không còn ai lo đến những chuyện tầm phào như thế nữa. Ai cũng cồng kềnh mệt mỏi với những gói, xách đựng đồ tế nhuyễn của mình. Nhiều phụ nữ có con nhỏ phải bồng ẵm trên tay, đành bỏ hết tất cả, chỉ cố giữ lấy con. Đoàn người di tản trong ánh mắt lo âu, như loài cầm thú đang bị săn đuổi. Có những gia đình sợ bị thất lạc đã dùng giây cột vào nhau, trông như những chuổi tù nhân bị trói đang ra pháp trường. Ai cũng đều mệt lả, nhưng vẫn phải cố lê bước đi tới, không được nghĩ chân hay ngừng lại. Bọn lính con nít Khờ-Me đỏ vênh váo, kiêu căng nhìn đoàn người di tản với cặp mắt đầy đe dọa của kẻ chiến thắng và đang cầm quyền sinh sát quần chúng trong tay. Chúng múa súng hăm he và bắn thị uy, khiến mọi người đều khiếp đảm. Có những chiếc xe hơi tư nhân chở đầy nhóc người tị nạn, ngồi lẫn lộn, chìm sâu trong những đống quần áo, vật dụng chất đến tận mui xe. Những bệnh nhân, những người bị thương và những người già yếu không bước nổi, đã được thân nhân đặt ngay trên bàn mổ, hoặc dùng ngay giường bệnh viện có bánh xe đẩy đi. Ngộ nghỉnh nhất là những chai nước biển, hay những chai thuốc truyền vào máu cho bệnh nhân hãy còn treo lủng lẳng, lắc lư trên đầu giường. Thỉnh thoảng lại có những chiếc xe hơi chết máy, nhưng vẫn được thiên hạ cố sức đẩy theo, vì trên xe đã chất đầy vật dụng. Có những chiếc xe đạp thồ, chất đồ đạc kín mít, trông chẳng còn thấy bánh xe đâu... Từ thuở bé đến giờ tôi chưa từng được thấy cảnh tượng nào kỳ quái, khủng khiếp đến như thế, dù là trong những phim tàn bạo hồi đệ nhị thế chiến, quân Đức quốc xã đã lưu đày cưỡng bách hàng triệu dân Do-Thái. Khi đi ngang qua chỗ tòa đại sứ Pháp, trước khi quẹo tay phải xuống phía bãi du ngoạn, chúng tôi nhìn thấy những người Pháp đang đứng xúm xít vào nhau chuyện trò trên bao lơn. Họ vẫy tay chào giã biệt chúng tôi, những con người đau khổ đang phải lê bước ra đi rời nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Khi đoàn người tiến đến phía Bắc hải cảng, thình lình trời sập tối. Phóng mắt nhìn ra xa, chúng tôi thấy lửa cháy đỏ rực trời khắp bốn phương. Bọn Khờ-Me đỏ đã không để sót một cơ sở nào. Ngôi nhà thờ lớn Russey Keo đang bốc cháy ngùn ngụt, ngọn lửa lên cao thấu tận màn trời đêm đen thẫm. Bây giờ thì chúng tôi đã ngửi thấy mùi khét của tử thi đang cháy dở dang chen lẫn với mùi khét của cao su. Trên mặt đường, cách đấy chừng vài chục thước là một vũng máu lớn đông đặc, bốc mùi tanh hôi đến lợm giọng. Gần đó là một đống lớn các xác chết vương vãi không toàn thây của những binh sĩ cộng hòa vừa bị hành quyết hồi ban sáng và sau đó đã bị các loại xe vận tải, xe thiết giáp chạy về hướng thủ đô Nam-Vang cán bừa lên.

8. ÂM THANH RÙNG RỢN TRONG ĐÊM TỐI
Khoảng 9 giờ tối, đoàn người bị cưỡng bách di tản tiến đến Prek Tasek, một thị xã cách Nam-Vang 7 cây số về phía Bắc. Nơi đây, chúng tôi được bọn Khờ-Me đỏ cho phép dừng chân nghỉ đêm ngay giữa đường, trên vỉa hè, lộ thiên.
Bây giờ chúng tôi đều đã mệt lả, nhưng cũng vẫn phải cố sức nhúm lửa, nấu ăn. Trong không gian thanh vắng, giữa đêm trường đen tối, những âm thanh quái đản, kỳ dị bắt đầu theo nhau vang lên, vọng khắp đó đây, tạo thành một bản hòa âm vô cùng rùng rợn. Đó là những tiếng kêu gọi thảm thiết, đầy tuyệt vọng của những người tìm thân nhân thất lạc. Chờ một lát, thấy bọn Khờ-Me đỏ không nói gì, Lan-Thi cũng bắt chước thiên hạ, cố lấy hết hơi gào to lên:
- “Má ơi! Má ơi! Lan-Thi và Chấn đây!... Má ơi! Bây giờ má ở đâu? Má trả lời...”. Em tôi cứ lập đi lập lại mãi lời kêu gọi này đến mệt lả, và gần muốn đứt hơi, cũng chẳng nghe tiếng trả lời. Khi nàng đã kiệt sức, tôi thấy thế, tiếp tục gào to lên như muốn xé toang màn đêm đen tối đang vây phủ chung quanh. Cuối cùng chúng tôi đành chấm dứt trong tuyệt vọng và nước mắt chan hòa. Cổ chúng tôi khô rang và rát như đã bị chà bằng giấy nhám, đau đớn đến nỗi tuy bụng đói nhưng vẫn không sao nuốt nổi miếng cơm xuống. Ăn xong chúng tôi ngả lưng nằm dài trên mặt đất còn nóng hầm vì ánh nắng mặt trời đã nung nấu suốt cả ngày. Nằm ngửa mặt nhìn lên nền trời đen thẩm và nặng trĩu như báo hiệu một thời tiết bất thường sắp xảy ra trong ngày mai ...

Đời người dưới chế độ Khơ Me Đỏ - Phần 1

Tác phầm này tôi không nhớ là mình đã đọc ở đâu, chỉ mang máng hình như trên quansuvn.net. Đọc xong tôi thấy nó hay quá, nó cay đắng và khốn nạn cho kiếp làm người dưới chế độ con đẻ của thằng Tung của tham lam xấu nết, tôi đã copy lại và nay biên tập thành từng phần gửi đến những ai chưa đọc. Tựa đề "Đời người dưới chế độ Khơ me Đỏ" là do tôi đặt...bởi khi đọc xong tôi không nghỉ rằng những nạn nhân của chế độ độc tài cuồng trị ấy lại là người và có lẽ những tên Khơ Me Đỏ cũng không nghỉ rằng nhân dân là con người.
Xin mời xem phần 1:

Đây là tự truyện của một thành niên trí thức Campuchia, anh Boun Sokha, ra đời trong nghịch cảnh và trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Thanh niên này cũng như tất cả mọi người dân Campuchia đều khao khát hòa bình và mong được sống yên ổn trên mảnh đất quê hương.
Ngày 17-4-75, khi Khờ-Me đỏ kéo vào thủ đô Nam Vang, ai cũng hân hoan vui mừng đón rước, lầm tưởng hòa bình đã đến và cảnh chém giết lẫn nhau không còn xảy ra nữa. Nhưng không ngờ, chính ngày đó lại là ngày mở đầu cho một chuỗi dài thảm họa đẫm máu, man rợ khủng khiếp đến nỗi gây chấn động dư luận khắp nơi trên thế giới. Ai nghe đến cũng phải rùng mình kinh hãi. Tác-giả đã sống nhiều năm trong cảnh địa ngục trần gian hãn hữu ấy. Trải qua bao nỗi kinh hoàng, ghê rợn, cuối cùng đã may mắn trốn thoát sang được Thái Lan cùng với người yêu, viết tác phẩm này như 1 thông điệp gửi đến nhân dân thế giới tự-do, rồi sau đó lại quay trở về Căm-Bu-Chia một mình, tranh đấu cho lý-tưởng tự do, công bằng và bác ái.
Hiện tác phẩm đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, phổ biến khắp nơi trên thế giới. Ấn bản Pháp-ngữ nhan đề: “LA MASSUE DE L'ANGKAR”, ấn bản Đan-ngữ nhan đề: “FOLKEMORDET I CAMBODJA”... Từ đó đến nay tác giả vẫn biệt tăm. Các cơ quan quốc tế nhân quyền đã tận lực tìm kiếm nhưng vô hiệu quả. Tác giả còn sống hay đã chết?

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2011

Một góc nhìn về các giá trị tri thức đại học - GS Nguyễn Đăng Hưng

Sắp đến ngày 20/11, trích đăng lại bút ký của GS Nguyễn Đăng Hưng - Phần 22. GS Hưng là một nhà khoa học, nhà giáo lớn của Việt Nam chúng ta. Bạn đọc nào chưa biết, chưa hiểu về GS thì hãy ghé thăm trang nhà GS Nguyễn Đăng Hưng để hiểu hơn về thân thế, sự nghiệp và những đóng góp của GS trong công cuộc chấn hưng nền giáo dục đại học ở nước ta.

phat-bang-khoa-11
        Các thạc sỹ khoá EMMC-I vừa nhận bằng của Đại học Liège cấp

Một góc nhìn về các giá trị tri thức đại học

qua kinh nghiệm triển khai các chương trình đào tạo cao học

Nguyễn Đăng Hưng

Thế là bắt đầu từ đầu năm 1996, tôi lao vào việc khai trương và triển khai chương trình hợp tác đào tạo cao học Bỉ-Việt trên diện qui mô hơn những năm trước.
Mỗi khoá tuyển sinh tôi tổ chức làm hai đợt liên tiếp. Đợt thi viết bao gồm những câu hỏi ôn tập về học trình của kỷ sư xây dựng hay cơ khí. Đợt hai thi vấn đáp do chính tôi phỏng vấn từng thí sinh. Vì đông thí sinh ghi danh, tôi đã phải bỏ ra ròng rã 3 ngày liên tiếp sáng chiều cho việc tuyển sinh khoá đầu tiên để có thể trao đổi với mỗi thí sinh ít nhất 15 phút. Năm nào cũng vậy, trong 12 năm dài tại Sài Gòn 12 khoá rồi Hà Nội 8 khoá, tôi đều giữ nguyên phương án tuyển sinh này. Tính trung bình mỗi khoá có chừng 50 người dự thi, như vậy tôi đã tiếp xúc trực tiếp được gần 1000 kỷ sư, cử nhân trẻ Việt Nam có yêu cầu theo học các lớp đào tạo thạc sỹ quốc tế tại chỗ do chúng tôi tổ chức. Đây có thể coi là sỹ số người dân đạt chuẩn của kỷ thuật thăm dò ý kiến người dân trong những dịp bầu cử hay trưng cần dân ý ở các nước tiên tiến phát triển.  Thành phần các thí sinh cũng rất rộng rãi và tiêu biểu cho xã hội Việt Nam. Thật vậy, phí dự thi rất thấp và những thí sinh nhà nghèo tham gia rất nhiệt tình vì họ được thông báo trước là sẽ có 15 học bỗng tại chỗ dành cho các thí sinh đỗ đầu, học bổng do dự án đào tạo chi trả.

Bỡi vậy, tôi có thể khẳng định là sau 12 năm, những chiêm nghiệm mà tôi đúc kết nói lên, với một độ sai lệch không cao, về học lực, khả năng ngoại ngữ, phong cách giao tiếp và nhất là trình độ văn hoá, hiểu biết của các sinh viên có bằng tốt nghiệp đại học tại Việt Nam, ít ra về cánh theo học các ngành công nghệ, kỹ thuật. Trong các cuộc phỏng vấn, tôi chú ý trực tiếp đến việc kiểm tra ngoại ngữ, đặc biệt khả năng nghe và nói tiếng Anh hay tiếng Pháp, khả năng tiêu hoá khoa học công nghệ (học viên có thực hiểu được những gì đã học không, học viên có suy nghĩ phản biện được gì về những gì mình đã học không?) và cuối cùng trình độ văn hoá hiểu biết chung bậc tú tài: lịch sử, địa lý, thời sự, quốc tế và Việt Nam…. Tôi cho rằng những hiểu biết chung cơ bản không thể thiếu được ở một người kỹ sư, vốn được đào tạo để chỉ huy nhà máy hay xí nghiệp.

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2011

Tài liệu học Tekla Structure tiếng Việt

Tài liệu này được biên soạn bởi Nguyễn Tây Ninh, mục đích phục vụ cho việc training nội bộ trong công ty PTSC M&C. Tài liệu đã được upload lên trang http://www.diendangxaydung.vn/, nay Nguyễn Tây Ninh upload lại trên blog riêng để quý bạn đọc dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu ứng dụng phần mềm này. Hy vọng sẽ giúp ích ít nhiều cho các bạn mới tìm hiểu Tekla, mọi đóng góp ý kiến xin bạn đọc e-mail cho tác giả theo địa chỉ nguyentayninh@mail.com. Rất hân hạnh được giúp đỡ quý bạn đọc.
Quý bạn đọc vui lòng download tại đây.

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Tài liệu học Tekla Structure V17.0

Nguyễn Tây Ninh thân ái chuyển đến quý bạn đọc tài liệu học Tekla V17.0 phần Detailing, chư vị vui lòng download Tại đây, chúc chư vị thành công trong quá trình tìm hiểu phần mềm này. Chư vị có thể liên hệ với Nguyễn Tây Ninh để được giải đáp và tư vấn kỹ thuật:
Email: nguyentayninh@gmail.com